Bản đồ lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt Nam, thể hiện bởi các triều đại chính thống đã được công nhận trong lịch sử Việt Nam. Mang tính chất rất phức tạp, lúc thì bị mất lãnh thổ về các nước khác, lúc lại chinh phục được những vùng lãnh thổ mới.
Nhìn chung lại vùng lãnh thổ cốt lõi nơi phát sinh ra người Việt hiện nay là vùng châu thổ sông Hồng, sau nhiều thế kỷ đi chinh phục, đồng hóa, khai khẩn mà lãnh thổ ngày nay đã trải dài đến tận đồng bằng sông Cửu Long.
Xem thêm: Tổng hợp hình ảnh Bản đồ Việt Nam, bản đồ hành chính 63 tỉnh/thành Việt Nam
Trong bài viết này chúng tôi sẽ khái quát toàn bộ lãnh thổ Việt Nam từ thời Hồng Bàng khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên cho đến ngày nay
Nội dung chính
1 Hồng Bàng:
Khoảng thế kỷ thứ III trước công nguyên một số sử liệu và huyền thoại cho rằng vào đầu thời Hồng Bàng, bộ tộc người Việt có lãnh thổ rộng lớn từ phía nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến tận vùng Thanh Hóa. Thực chất các bộ tộc Việt phía Nam sông Trường Giang không có cùng sắc tộc, chủng tộc và ngôn ngữ. Cái tên Bách Việt là chỉ chung cho các bộ tộc các nhà nước phía Nam của Trung Nguyên
1.1 Nước Văn Lang
1.2 Nước Âu Lạc
Sau khi chiếm được Văn Lang, Thục Phán đã sát nhập Văn Lang vào đất của mình, nước Âu Lạc có lãnh thổ từ phía nam sông Tả Giang (Quảng Tây,Trung Quốc) kéo xuống tận dãy Hoành Sơn thuộc Hà Tĩnh ngày nay
2 Thời Bắc Thuộc
Nếu coi nhà Triệu (từ 207 đến năm 111 trước công nguyên) là một phần của hệ thống phân chia lịch sử thời kỳ Bắc thuộc lần 1 thì lãnh thổ nước Việt Nam thuộc nước Nam Việt của 5 đời vua nhà Triệu.
Năm 111 trước công nguyên, nhà Triệu để mất nước về tay nhà Hán. Sau đó lãnh thổ nước Nam Việt cũ bị chia thành 6 quận, đồng thời xác lập thêm phần đất ở 3 quận mới là Nhật Nam, Chu Nhai, Đạm Nhĩ
Lãnh thổ của dân tộc Việt Nam thời kỳ này, trong sự cai quản của chính quyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Hà Tĩnh hiện nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc Giao Châu) tiến xuống phía nam đánh Chiêm Thành và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân vào cai trị nhưng không giữ được lâu vì sau đó Chiêm Thành thường lấy lại được.
2.1 Nước Vạn Xuân
Vạn Xuân là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi thoát khỏi chính quyền trung ương Trung Hoa, dưới thời nhà Tiền Lý và Triệu Việt Vương. Tháng 2 năm 544, sau khi đánh bại quân nhà Lương (Trung Quốc), Lý Bí xưng là Hoàng đế và đặt tên nước là Vạn Xuân. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602, khi nhà Tùy đánh bại Lý Phật Tử và đô hộ Việt Nam một lần nữa.
3 Lãnh thổ Việt Nam Thời phong kiến tự chủ
Sau khi Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ của Tĩnh Hải quân năm 905, Việt Nam bắt đầu thời kỳ độc lập tự chủ. lãnh thổ Tĩnh Hải quân gồm 12 châu
3.1 Tĩnh Hải Quân
Việt Nam chính thức vào kỷ nguyên độc lập từ khi Ngô Quyền đánh bại nhà Nam Hán vào năm 938. Tuy nhiên lãnh thổ bị co lại chỉ còn 8 châu: Giao, Lục, Phúc Lộc, Phong, Trường, Ái, Hoan, Diễn. 4 châu bị nhà Nam Hán chiếm là Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An.
3.2 Đại Cồ Việt
Năm 968, Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu trở lại sau hơn 400 năm, là Đại Cồ Việt
Năm 1014, tướng nước Đại Lý là Đoàn Kính Chí đem quân vào chiếm đóng châu Vị Long và châu Đô Kim (nay thuộc Tuyên Quang), vua Lý Thái Tổ sai con là Dực Thánh Vương đi đánh dẹp, quân Đại Lý đại bại, nhân cơ hội đó nhà Lý sáp nhập luôn khu vực ngày nay là Hà Giang vào Đại Việt.
3.3 Đại Việt
Sau đó Lý Thái Tổ đổi tên nước là Đại Việt năm 1054
Vào Năm 1069, vua Lý Thánh Tông nam tiến đánh nước Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm lúc bấy giờ là Chế Củ (Jaya Rudravarman), đem về kinh đô Thăng Long. Để được tha mạng vua Chiêm đã phải cắt các vùng đất phía bắc của Chiêm Thành gồm ba châu là: Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý cho nước Đại Việt. Những châu ấy ngày nay ở địa phận các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị.
Năm 1159, nhân khi nước Đại Lý suy yếu, vua Lý Anh Tông và Tô Hiến Thành đã tiến hành thu phục vùng đất của các tù trưởng dân tộc thiểu số người Thái ở bắc Yên Bái, nam Lào Cai vào lãnh thổ Đại Việt.
Việt Nam thời nhà Trần năm 1306 vua nước Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Simhavarman) đã cắt đất hai châu Ô và Rí cho vua Trần Anh Tông của Đại Việt để làm sính lễ cưới Huyền Trân công chúa, vùng đất mà ngày nay là phía nam Quảng Trị và Huế. Biên giới phía nam của Đại Việt lúc này tiến đến đèo Hải Vân.
3.4 Đại Ngu
Đại Ngu là quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ (1400 – 1407). Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu tháng 3 năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền
4 Bắc thuộc lần 4
Vào cuối thế kỉ 14 nhà Trần bấy giờ đã sa sút, Hồ Quý Ly dần dần nắm quyền kiểm soát cả triều đình, dùng những biện pháp thanh trừng những đại thần trung thành với triều Trần. Hồ Quý Ly lên ngôi vua vào năm 1400, đặt quốc hiệu Việt Nam là Đại Ngu, ông thực hiện rất nhiều cải tổ trong hệ thống chính trị và xã hội lúc bấy giờ. Nhưng do thực hiện quá nhiều sự thay đổi trong thời gian ngắn, lại không được các cựu thần nhà Trần và dân chúng ủng hộ, thêm tình hình kinh tế xã hội hoàn toàn suy yếu vì nhiều nguyên nhân, nên đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
Nhân cơ hội đó, năm 1406 nhà Minh ở Trung Quốc dùng chiêu bài phù Trần diệt Hồ, nhà Minh mang quân sang xâm lược Đại Ngu. Nhà Hồ nhanh chóng tsụp đổ hoàn toàn vào khoảng giữa năm 1407. Nước Đại Ngu lúc này bị tiêu diệt hoàn toàn và bị sát nhập lãnh thổ vào Trung Quốc. Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ trở lại sau 500 năm độc lập tự chủ.
4.1 Khởi Nghĩa Lam Sơn
Vào năm 1418 Lê Lợi và các hào kiệt phất cờ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tại vùng miền núi Thanh Hóa, ông tự xưng là Bình Định Vương, kêu gọi người dân Việt Nam đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh cứu nước. Lúc này lãnh thổ đất Việt chỉ còn Lam Sơn nay thuộc huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa.
Vào năm 1424 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu tiến vào phía Nam và dành được những thắng lợi quan trọng. Đến cuối năm 1425, Lê Lợi đã làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào
5 Nhà Hậu Lê
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dành thắng lợi đã thống nhất được toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Lê Lợi lên ngôi vào năm 1428, tức là vua Lê Thái Tổ, chính thức dựng lên nhà Hậu Lê. Do chiến công hiển hách đánh bại quân Minh dành lại quyền tử chủ cho người Việt, ông trở thành một vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam, tên tuổi được lưu truyền đến ngàn đời sau
Năm 1471 vua Lê Thánh Tông mang 20 vạn quân nam tiến đánh vào kinh đô Vijaya ( đất Bình Định ngày nay) nước Chiêm Thành, kinh đô Vijaya của Chiêm Thành thất thủ. Vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập vùng đất bắc Chiêm Thành vào Đại Việt (ngày nay bao gồm ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định).
Năm 1478, sau khi thu phục tiểu vương quốc Bồn Man, vua Lê Thánh Tông đã sát nhập vùng Sơn La, các huyện phía tây của Thanh Hóa, phía tây Nghệ An và tỉnh Hủa Phăn của Lào ngày nay vào đất Đại Đại Việt
5.1 Giai đoạn Nam – Bắc triều
Khoảng đầu kỷ 16, nhà Hậu Lê lúc này đã bắt đầu suy yếu. Một võ tướng nhà Lê là Mạc Đăng Dung đứng ra trấn áp các cuộc nổi dậy, dần dần nắm lấy quyền hành triều Lê. Mạc Đăng Dung đánh dẹp các lực lượng chống đối nhà hậu Lê và đến 1527 thì phế truất Lê Cung Hoàng, lập ra nhà Mạc.
Lúc này có một võ tướng cũ của nhà Lê, là Nguyễn Kim lập một người dòng dõi nhà Lê là Lê Duy Ninh đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu (Lào ngày nay), tức vua Lê Trang Tông. Sau nhiều lần tổ chức tấn công ngược về Đại Việt không thành công, mãi tới năm 1539, Nguyễn Kim mới chiếm được huyện Lôi Dương ở Thanh Hóa; sang năm sau tiến vào đất Nghệ An. Nhà Hậu Lê bắt đầu xác lập chỗ đứng trở lại trên lãnh thổ Đại Việt.
Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng Dương Chấp Nhất đầu độc giết chết. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội.
Năm 1554, Trịnh Kiểm lập hành dinh tại quê hương Biện Thượng, sau đó điều quân đánh Thuận Hóa. Khi quân Lê – Trịnh tiến vào phía nam, các quan lại nhà Mạc và các hào trưởng địa phương phần lớn đi theo. Tướng Mạc ở Thuận Hóa là Hoàng Bôi mang quân ra đánh bị tử trận. Quân Mạc bị đánh tan, nhà Lê – Trịnh lấy lại được Thuận Hóa và Quảng Nam.
Toàn bộ lãnh thổ Đại Việt chính thức chia làm 2 nửa: từ Ninh Bình trở ra trong tay nhà Mạc, từ Thanh Hóa trở vào trong tay nhà Lê – Trịnh
5.2 Nguyễn Hoàng xây dựng cơ đồ mở mang bờ cõi Đại Việt
Năm 1569, Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim và là em vợ của Trịnh Kiểm ra Thanh Hóa yết kiến vua Lê Anh Tông, nộp quân lương giúp Nam triều đánh nhà Mạc, rồi đến phủ Thái sư lạy mừng Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm rất hài lòng, phong cho ông trấn thủ luôn đất Quảng Nam. Nguyễn Hoàng làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả Xứ Quảng Nam và Xứ Thuận Hóa. Lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Năm 1611, do quân Chăm Pa tiếp tục quấy nhiễu vùng biên giới Hoa Anh, Nguyễn Hoàng đã sai Văn Phong đi dẹp, quân Chăm Pa nhanh chóng bị đánh bại trước lực lượng của chúa Nguyễn. Vua Po Nit của Chăm Pa phải rút quân xuống phía Nam đèo Cả. Sau đó vùng đất Hoa Anh này được lập thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa vàĐồng Xuân, giao cho Lương Văn Chánh làm tham tướng, Văn Phong làm lưu thủ.
Cho tới khi ông mất, giang sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh) qua đèo Hải Vân tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, bây giờ là vùng cực nam Phú Yên, giáp tỉnh Khánh Hòa. Diện tích 2 xứ Thuận Quảng rộng khoảng 45000 km²
5.3 Trịnh – Nguyễn phân tranh
Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần tiến chiếm vùng Khánh Hòa của Chiêm Thành. Lấy sông Phan Rang làm ranh giới. Vùng phía Đông sông đến địa đầu Phú Yên (vùngKauthara) đặt dinh Thái Khang. Phần phía Tây sông (vùng Panduranga) vẫn thuộc về Chăm Pa.
Năm Mậu Tuất (1658) vua nước Chân Lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau ngôi vị, sang cầu cứu bên chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi-xuy (nay thuộc tỉnh Đồng Nai) bắt được vua nước ấy là Nặc-Ông-Chân đem về giam ở Quảng Bình một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều-cống và phải bênh vực người Việt sang làm ăn ở bên ấy.
Năm KỷTỵ (1679) có quan nhà Minh là tổng binh trấn thủ đất Long Môn (Quảng Tây) Dương Ngạn Địch, phó tướng Hoàng Tiến, tổng binh châu Cao, châu Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng Đông) là Trần Thượng Xuyên, phó-tướng Trần An Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3.000 quân cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt Nam. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho vào ở đất Đông Phố (tức là đất Gia Định). Bọn Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc Đã (tức là đất Đồng Nai), ở Mỹ Tho (thuộc Tiền Giang), ở Ban Lân (thuộc Đồng Nai) rồi cày ruộng làm nhà lập ra phường phố
Lúc này nhà Mạc ở phía bắc đã bị tiêu diệt hoàn toàn
Năm 1693, thời chúa Nguyễn Phúc Chu, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm và chính thức sáp nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm Thành lập trấn Thuận Thành nay là vùng đất Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay, tuy nhiên chính quyền Đàng Trong vẫn dành cho người Chăm chế độ tự trị ở đây cho đến năm 1832.
Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn). Chính thức đưa khu vực các tỉnh miền Đông Nam Bộ của Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong.
Năm 1699, Vũ Công Tuấn bị triều đình nhà Lê bắt và giết. Triều đình đặt chức Lưu thủ ở Tuyên Quang, từ đó dòng dõi “Chúa Bầu” chấm dứt. Lãnh thổ chúa Bầu chính thức sáp nhập vào đất nhà Lê-Trịnh
Năm 1708, Mạc Cửu (thương nhân người Hoa) người khai phá vùng đất Hà Tiên, Kiên Giang (của Chân Lạp) xin nội thuộc chúa Nguyễn, chúa Nguyễn phong chức Tổng binh cai quản
Cùng với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, chính quyền Đàng Trong lần lượt đưa người ra khai thác và kiểm soát các hòn đảo lớn và quần đảo trên biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và kiểm soát từ đầu thế kỷ 17, Côn Đảo từ năm 1704,Phú Quốc từ năm 1708 và quần đảo Trường Sa từ năm 1711
Vào năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú (Chúa Ninh) nhận đất dâng từ vua nước Chân Lạp là Satha (Nặc Tha), lãnh thổ Đại Việt được mở rộng thêm hai vùng đất mới là Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long).
Năm 1755, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) sau khi bị chúa Nguyễn Phúc Khoát tức Vũ Vương đánh bại đã dâng vùng đất Tân An, Gò Công (Long An, Tiền Giang ngày nay) để cầu hòa
Năm 1757, vua Nặc Nguyên chết, chú là Nặc Nhuận dâng 2 xứ Preah Trapeang và Basac (vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng) để được chúa Nguyễn Phúc Khoát phong làm vua Chân Lạp. Sau khi Nặc Nhuận chết, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã hỗ trợ Nặc Tôn (Outey II) lên ngôi và bảo vệ trước sự tấn công của Xiêm La (Thái Lan), vua Nặc Tôn đã dâng vùng đất ngày nay là Châu Đốc, Sa Đéc cho chúa Nguyễn.
Riêng Mạc Thiên Tứ, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Lình Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sảt nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản.
6. Khởi Nghĩa Tây Sơn
Sau giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh đât nước bị chia làm 2 thì vào năm 1771 cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng phát bắt đầu từ vùng đất Tây Sơn thuộc tỉnh Bình Định ngày nay
Cuối năm 1774 đầu năm 1775 quân Trịnh tiến vào Phú Xuân. Chúa Nguyễn lúc này không chống nổi quân Trịnh phải bỏ chạy vào Quảng Nam. Quân Trịnh chiếm toàn bộ Thuận Hóa
Quân Trịnh ở phía bắc đánh vào. Chúa Nguyễn không địch nổi hai kẻ địch phải bỏ chạy vào Gia Định. Tây Sơn bèn đầu hàng Trịnh để đánh Nguyễn. Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Định, quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, cả Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương cùng một số quan lại đã bị bắt và bị giết. Vào năm này Chúa Nguyễn đã mất hoàn toàn quyền kiểm soát ở Đại Việt
Vào năm 1786 Do sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ quyết định đem quân ra Bắc đánhThăng Long để diệt họ Trịnh dù chưa được lệnh của vua anh Nguyễn Nhạc.
Với danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ sai Chỉnh làm tiên phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng thua trận, các danh tướng phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp sợ, đến khi nghe quân Tây Sơn kéo ra, đa số đã bỏ trốn. Chúa Trịnh không được lòng dân, bỏ thành Thăng Long chạy, bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải,Trịnh Tông tự sát. Lúc này Tây Sơn đã kiếm soát được gần như toàn bộ lãnh thổ Việt Nam
Trong lúc Nguyễn Huệ bận đối phó với quân Thanh tại Bắc Hà (1788-1789), vùng Gia Định dưới quyền Tây Sơn cũng không ổn định, quân Tây Sơn bị cô lập trước dân chúng địa phương vốn có nhiều cảm tình với Chúa Nguyễn nói chung và Nguyễn Ánh nói riêng, dần dần Nguyễn Ánh lấy lại được vùng đất Nam Hà dẹp yên được vùng đất Gia Định
7. Nhà Nguyễn
Vào năm 1802 sau khi tiêu diệt được nhà Tây Sơn Nguyễn Ánh lên ngôi vua, để tượng trưng sự thống nhất Bắc Nam, lần đầu tiên sau nhiều năm, Nguyễn Ánh chọn niên hiệu là Gia Long, Gia lấy từ Gia Định và Long lấy từ Thăng Long
Năm 1816, vua Gia Long chính thức cho cắm cờ, xác lập chủ quyền, giao đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải thay mặt quản lý hai quần đảoHoàng Sa và Trường Sa. Trước đó khoảng 200 năm các chúa Nguyễn cũng đã lập đội Hoàng Sa hằng năm đi ra các đảo tìm kiếm sản vật
Năm 1830, vua Minh Mạng sáp nhập vùng Tây Nguyên vào lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên các bộ tộc người Thượng vẫn được quyền tự trị của mình cho tới năm 1898 khi người Pháp trực tiếp tổ chức cai trị ở đây
Năm 1832 nhà Nguyễn bỏ chế độ tự trị của người Chăm ở trấn Thuận Thành (Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay) chính thức sát nhập vùng đất này vào lãnh thổ Việt Nam
Vào năm 1835 Vua Minh Mạng cho thành lập Trấn Tây Thành (Campuchia ngày nay) thời kỳ này lãnh Thổ Việt Nam vươn tới cực đại tới tận Ai Lao, Chân Lạp
Việc đặt Trấn Tây Thành cùng với chính sách cai trị mất lòng dân Chân Lạp của Vua Minh Mạng và quan lại đã gây hao binh tổn lương, tướng sĩ mệt nhọc.
Năm 1841, vua Minh Mạng mất, Vua Thiệu Trị vừa lên thay. Thấy tình hình Chân Lạp bất ổn mãi, nên nhân có lời tâu của Tạ Quang Cự xin bỏ đất Chân Lạp, vua Thiệu Trị thuận ý, truyền cho quan quân Đại Nam rút quân về giữ An Giang.
8. Thời kỳ bị Pháp xâm lăng và đô hộ
Năm 1859 thực dân Pháp đánh thành Gia Định
Hòa ước Nhâm Tuất (1862) buộc triều đình nhà Nguyễn nhượng 3 tỉnh Nam Kỳ là Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho cho Pháp. Tiếp sau đó tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Vĩnh Long cũng bị sát nhập nốt vào lãnh thổ bảo hộ của Pháp.
Năm 1870, Pháp ký với Campuchia hiệp định phân định biên giới.
Năm 1874, Pháp ký với Việt Nam Hòa ước Giáp Tuất (1874) công nhận sự thống trị của Pháp với toàn Nam Kỳ.
Hòa ước Quý Mùi, 1883 được ký, Việt Nam mất một phần Trung Kỳ và toàn bộ Bắc Kỳ vào tay Pháp. Việt Nam cũng mất quyền tự quyết về đối ngoại vào tay Pháp
1884 Hòa ước Giáp Thân được ký, Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa của Pháp
Năm 1887 người Pháp nhân danh nước Bảo hộ triều đình Huế ký Hiệp ước Pháp-Thanh nhường một dải đất cho nhà Thanh. Sông Dương Hà (sông An Nam Giang) trước kia là đường biên giới nay lùi biên giới xuống phía nam, lấy cửa sông Bắc Luân ở Hải Ninh (Móng Cái) làm địa giới
8.1 Liên Bang Đông Dương
Năm 1893, lúc này Pháp đã thành lập liên bang Đông Dương, dựa theo địa hình đã cắt tỉnh Huaphanh (Hủa Phăn), Xiêng Khoảng giao về lãnh thổ Lào (Ai Lao).
1895, từ công ước Pháp-Thanh 1895đã đưa về phần lớn vùng đất Lai Châu, Điện Biên và một phần Lào Cai ngày nay thuộc về xứ Bắc Kỳ còn một phần đất ở bắc sông Bắc Luân thuộc về nhà Thanh. Sâm Châu và Xiêng Khoảng bị cắt cho Lào
Năm 1893, hiệp ước Pháp-Xiêm (1893) theo đó nhượng toàn bộ vùng lãnh thổ phía Đông sông Mê Kông cho Pháp, gạt bỏ lực lượng quân sự và những ảnh hưởng của Xiêm tại vùng cao nguyên thượng sông Sêrêpôk. Vùng đất nhượng lại này bao gồm cả tỉnh Stung Treng, năm 1899 địa khu Đắc Lắc được thành lập từ Stung Treng. Năm 1904, Đắc Lắc được sáp nhập vào Việt Nam.
Đến 1905 thì sát nhập các tỉnh Tây Nguyên còn lại
9 Lãnh thổ Việt Nam sau năm 1945
Đế quốc Việt Nam là tên chính thức của một chính phủ tồn tại 5 tháng trong lịch sử Việt Nam
Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập vào ngày 2/9/1945
Từ 1954 đến 1975, Việt Nam bị chia đôi tại vĩ tuyến 17 sau hiệp định Giơ-ne-vơ
30/4/1975 Lãnh Thổ Việt Nam hoàn toàn thống nhất như ngày nay
9.1 Quần đảo Hoàng Sa
Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với Quần đảo Hoàng Sa, nhưng Hoàng Sa nay đang bị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm đóng từ sau Hải chiến Hoàng Sa, 1974.
9.2 Quần Đảo Trường Sa
Hiện Quần đảo Trường Sa đang bị nhiều quốc gia trong khu vực tranh chấp do có tiềm năng lớn về dầu khí và nguồn cá dồi dào. Việt Nam là quốc gia nắm giữ nhiều đảo nhất. Các quốc gia đang tranh chấp chủ quyền gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan,Philippines, Malaysia, Brunei.
Nguồn: Lịch sử Việt Nam