Trắc địa là gì? ngành trắc địa hay ngành đo đạc là gì?

0
16915

Có khá nhiều bạn quan tâm cũng như chưa hiểu rõ về khái niệm trắc địa là gì và đo đạc là gì, cũng như một số khái niệm cơ bản và hiểu chưa đúng về khái niệm này. Hôm nay Ứng dụng mới sẽ cho các bạn hiểu sâu hơn về trắc địa và phân biệt các khái niệm trong trắc địa

Trắc địa là gì?

Trắc địa hay trắc đạc hay đo đạc là việc đo đạc và xử lý để xác định vị trí tương đối của các điểm bề mặt trái đất để mô tả chúng nên mặt phẳng đó chính là bản đồ. Trắc địa là việc xác định tọa độ XY và độ cao Z, hình dạng, phương hướng của địa hình và địa vật trên mặt đất trong một hệ quy chiếu. Sản phẩm của ngành Trắc địa có thể phục vụ cho nhiều ngành

Trắc địa là ngành đo đạc xác định kích thước và phương hướng của địa vật

Xem thêm: Đo vẽ nhà đất – khái niệm và dịch vụ đo vẽ nhà đất

Nội dung của công tác Trắc địa có thể được chia thành năm phần:

  1. Lựa chọn phương pháp khảo sát, thiết bị, địa điểm
  2. Thu thập dữ liệu. Làm các phép đo và ghi dữ liệu.
  3. Xử lý dữ liệu. Thực hiện các tính toán dựa trên các dữ liệu ghi lại để xác định vị trí, diện tích
  4. Lập bản đồ. Vẽ đo hoặc giá trị tính toán để tạo ra một bản đồ, plat, hoặc biểu đồ, hoặc mô tả các dữ liệu ở dạng số hoặc máy tính.
  5. Stakeout (Layout). Triển khai bản vẽ thiết kế ra thực địa phục vụ các công tác thi công và xây dựng các công trình cũng như các công tác giám sát việc thi công. Các dụng cụ đo chủ yếu là máy thủy bình, máy kinh vĩ, máy toàn đạc điện tử

Từ những nội dung như trên đã chia thành các chuyên ngành

  1. Trắc địa bản đồ: đo vẽ các loại bản đồ phục vụ cho dân sự: như bản đồ địa chính, bản đồ địa hình
  2. Trắc địa công trình: khảo sát thiết kế công trình, đo đạc triển khai vị trí công trình, giám sát thi công, quan trắc biến dạng công trình
  3. Trắc địa mỏ công trình
  4. Trắc địa cao cấp: đo đạc trên quy mô toàn cầu
  5. Trắc địa viễn thám: đo vẽ bản đồ từ ảnh hàng không, từ các thiết bị như máy ảnh cùng với các thiết bị hỗ trợ như máy bay
  6. Trắc địa vệ tinh: xác định vị trí địa vật và đo vẽ địa hình bằng vệ tinh
  7. Hệ thông tin địa lý( GIS): về phần mềm và cơ sở dữ liệu địa lý

Trắc địa là một trong những ngành nghề có lịch sử lâu đời nhất và quan trọng nhất vì nó đã được ứng dụng để đánh dấu ranh giới và phân chia đất. Trắc địa hiện nay đã trở thành công việc không thể thiếu ngày nay

Trắc địa tiếp tục đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nhiều ngành kỹ thuật. Ví dụ, các cuộc khảo sát được yêu cầu lập kế hoạch, xây dựng và duy trì đường cao tốc, đường sắt, xây dựng cầu, đường hầm, kênh mương, phân khu đất, hệ thống đường ống, vv Tất cả các kỹ sư phải biết giới hạn của độ chính xác có thể trong xây dựng.

Lịch sử ngành Trắc địa

Các ghi chép lịch sử lâu đời nhất trong sự tồn tại ngày hôm nay dã cho thấy rằng Trắc địa đã bắt đầu ở Ai Cập. (khoảng 1400 trước công nguyên.) Chia đất ở Ai Cập phục vụ cho mục đích tính thuế. Những công tác đo đạc ban đầu được gọi là dây thừng băng ca, kể từ phép đo của họ đã được thực hiện với những sợi dây có dấu hiệu ở khoảng cách đơn vị.

Lịch sử hình thành và phát triển ngành Trắc địa
Lịch sử hình thành và phát triển ngành Trắc địa

Như một hệ quả của công việc này, các nhà tư tưởng Hy Lạp đầu tiên đã phát triển khoa học về hình học. Hereon đứng ra tiên phong cho việc áp dụng khoa học để khảo sát trong khoảng 120 trước công nguyên. Ông là tác giả của một số lập luận quan trọng của lãi suất để điều tra, trong đó có The Dioptra, mà liên quan đến các phương pháp khảo sát một lĩnh vực, vẽ một kế hoạch, và thực hiện các phép tính. Nó cũng mô tả một trong những sản phẩm đầu tiên của thiết bị khảo sát ghi lại.

Phát triển quan trọng trong ngành khảo sát đến từ những người La Mã practicalminded, mà nổi tiếng nhất viết về khảo sát là Frontinus. Mặc dù các bản thảo ban đầu biến mất. Đây kỹ sư La Mã ghi nhận và điều tra viên, những người sống trong thế kỷ đầu tiên, là người tiên phong trong lĩnh vực Trắc địa và phát minh của ông vẫn là tiêu chuẩn cho nhiều năm.

Một trong những bản thảo Latin lâu đời nhất trong sự tồn tại là Codex Acerianus, được viết vào khoảng thế kỷ thứ sáu. Nó chứa một tư liệu của khảo sát là thực hành bởi những người La Mã và bao gồm một số trang từ Frontinus. Bản thảo đã được tìm thấy trong thế kỷ 10 bởi Gerbert và phục vụ như là cơ sở cho văn bản của mình về hình học, trong đó phần lớn đã được dành cho việc khảo sát đo đạc

Trái đất là một mặt phẳng, nhưng bằng cách ghi nhận bóng tròn của trái đất trên mặt trăng trong eckopses âm lịch và xem tàu ​​dần dần biến mất khi họ đi thuyền về phía chân trời, nó đã từ từ suy luận rằng hành tinh thực sự cong theo mọi hướng.

Xác định kích thước thật và hình dạng của trái đất gây ra sự tò mò cho chúng ta cho nhiều thế kỷ. Lịch sử ghi rằng một người Hy Lạp tên là Eratosthenes, vào năm 220 trước công nguyên. đầu tiên đã cố gắng để tính toán kích thước của nó. Từ góc đo, áp dụng hình học, Eratosthenes tính chu vi của trái đất vào khoảng 25.000 dặm. Đo đạc chính xác sau đó sử dụng công cụ tốt hơn và một kỹ thuật tương đương về mặt hình học để Eratosthenes của đã cho thấy giá trị của mình, mặc dù hơi quá lớn, để được ngạc nhiên gần với một chấp nhận hiện tại. Trên thực tế, tất nhiên, trái đất xấp xỉ một hình cầu dẹt có bán kính xích đạo khoảng 13,5 dặm dài hơn so với bán kính vùng cực.

Trắc địa trung đại

Sự cần thiết của bản đồ và vị trí ranh giới quốc gia do Anh và Pháp để thực hiện các cuộc điều tra sâu rộng đòi hỏi chính xác; do đó khảo sát trắc địa đã bắt đầu. Khảo sát trắc địa được thành lập bởi một hành động của Quốc hội trong năm 1807. Ban đầu phí của nó là để thực hiện khảo sát thủy văn và chuẩn bị biểu đồ hải lý. Sau đó các hoạt động của nó đã được mở rộng để bao gồm thành lập các di tích kiểm soát trên cả nước.

Tăng giá trị và tầm quan trọng của ranh giới chính xác đã đưa trắc địa vào một vị trí nổi bật. Gần đây hơn, nhiều phân khu đất có hồ sơ tốt hơn yêu cầu, và các nhu cầu đặt ra trong lĩnh vực thăm dò và sinh thái đã kéo theo một chương trình khảo sát tăng cường. Khảo sát vẫn còn là dấu hiệu của sự tiến bộ trong việc phát triển và sử dụng các nguồn tài nguyên của trái đất.

Lịch sử hình thành và phát triển ngành Trắc địa

Sự phát sinh và phát triển của trắc địa gắn liền với sự phát triển của khoa học và đời sống. Cách đây khoảng 3.000 năm trước Công nguyên, người Ai Cập thường phải “phân chia đất đai” giữa các bộï tộc sau các trận lũ của sông Nil. Thuật ngữ “trắc địa” tức “phân chia đất đai” được ra đời từ đấy.

Sau Ai Cập, Cổ Hi Lạp có nền văn hoá phát triển mạnh. Khoảng 300 năm trước Công nguyên, nhà thiên văn học Eratosten đã cho rằng quả đất có dạng hình cầu, và đo được độ dài cung kinh tuyến.

Xem thêm: Đo vẽ nhà đất – khái niệm và dịch vụ đo vẽ nhà đất

Lịch sử hình thành và phát triển ngành trắc địa
Lịch sử hình thành và phát triển ngành trắc địa

Thế kỷ thứ 13, Trung quốc đã tìm ra la bàn và ứng dụng la bàn vào việc thành lập bản đồ hàng hải bằng phương pháp sao hoả tâm.

Thế kỷ thứ 16, nhà bản đồ học Mecartor đã tìm ra phép chiếu phương vị ngang đồng góc để vẽ bản đồ.

Thế kỷ thứ 17, nhà bác học Vecnie đã phát minh ra du xích.

Thế kỷ thứ 18, nhà bác học Lambert đo được độ dài kinh tuyến qua Pari và đặt ra đơn vị độ dài đo là mét.

Thế kỷ 19, nhà toán học Gauss tìm ra phương pháp chiếu đồ mới.

Trải qua nhiều thời đại, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và nền sản xuất xã hội, khoa học trắc địa ngày càng phát triển. Những phát minh kính viễn vọng, logarit, tam giác lượng mặt cầu… đã tạo điều kiện vững chắc cho sự phát triển của khoa học trắc địa.

Trong những thập kỉ gần đây, những thành tựu mới về khoa học kĩ thuật đã làm cho khoa học trắc địa có bước phát triển mạnh: kỹ thuật thăm dò từ xa (viễn thám) đã cho phép thành lập bản đồ từ ảnh máy bay, ảnh vệ tinh. Nhiều nước công nghiệp phát triển đã chế tạo ra nhiều máy trắc địa có kích cỡ nhỏ, nhiều tính năng, có độ chính xác cao, sử dụng máy tính điện tử vào việc giải các bài toán trắc địa có khối lượng lớn v.v… là những thành tựu mới nhất của khoa học áp dụng trong trắc địa.

Sự phát triển ngành Trắc địa ở Việt Nam. Ở nước ta, ngành trắc địa đã phát triển từ lâu. Nhân dân ta từ thuở xưa đã áp dụng kiến thức trắc địa vào sản xuất, quốc phòng. Việc xây dựng các thành luỹ cổ như thành Cổ Loa, kinh đô Hoa Lư, việc mở mang đường sá, sông ngòi qua các thời đại đã chứng minh vể hiểu biết trắc địa của nhân dân ta. Đặc biệt dưới thời nhà Lê, năm 1467, vua Lê Thánh Tôn đã cho người đi khảo sát núi sông để lập bản đồ nước Đại Việt thời Hồng Đức.

Đầu thế kỷ 20, sau khi thôn tính và lập nền đô hộ, Pháp đã tiến hành công tác đo vẽ cho toàn bộ Đông Dương nhằm mục đích khai thác tối đa vùng đất này. Việc đo đạc được tiến hành có tổ chức, áp dụng các phương pháp đo khoa học và các máy móc có chất lượng cao. Những bản đồ, hồ sơ còn lưu trữ nói lên điề đó. Hiện nay những bản đồ, những số liệu đo đạc từ trước năm 1945 vẫn còn được dùng trong một số ngành.

Trong thời kháng chiến chống Pháp (1646-1954) công tác trắc địa chủ yếu phục vụ cho quân sự: như trắc địa pháo binh, công binh, trinh sát … Sau cuộc kháng chiến thành công, nhà nước Việt Nam ra đời năm 1959 đánh dấu một bước trưởng thành của ngành trắc địa Việt Nam.

Đội ngũ người làm công tác đo đạc và bản đồ nhà nước là cơ quan có chức năng tổ chức việc đo vẽ bản đồ toàn quốc các tỷ lệ, ban hành Quy phạm trắc địa và thống nhất công tác trắc địa trong cả nước

Nguồn tin: vigac.vn

Previous articleBản đồ du lịch Việt Nam
Next articleBản đồ học là gì? Lịch sử hình thành và phát triển ngành Bản đồ

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.