Các phương pháp thể hiện nội dung bản đồ

0
55038
Khi thành lập bản đồ người ta phải sử dụng các phương pháp thể hiện nội dung bản đồ khác nhau để thể hiện các yếu tố nội dung chuyên môn. Mỗi phương pháp có thể sử dụng độc lập hoặc sử dụng phối hợp với các phương pháp khác.

1. Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp ký hiệu

 Đó là phương pháp dùng các ký hiệu ngoài tỷ lệ để thể hiện các đối tượng xác  tại các điểm hoặc có kích thước không thể hiện được theo tỷ lệ bản đồ, hoặc diện tích của nó trên bản đồ nhỏ hơn diện tích của ký hiệu.

Phương pháp ký hiệu không những chỉ nêu được đặc điểm phân bố của đối tượng mà còn có khả năng thể hiện được những đặc trưng về số lượng, chất lượng cũng như cấu trúc và động lực của các đối tượng nữa.

Thể hiện đặc trưng về số lượng hiện tượng thông qua kích thước của ký hiệu, đôi khi người ta còn dùng cả màu sắc hay nét gạch bên trong ký hiệu. Sự liên hệ giữa số lượng hiện tượng ở từng điểm bằng kích thước của ký hiệu được xây dựng xuất phát từ mức độ xác định toán học khác nhau tuỳ theo việc lựa chọn chỉ số biểu hiện.

Nếu như số lượng của đối tượng cụ thể ở từng điểm được phản ánh qua kích thước tương ứng của từng ký hiệu thì sự biểu hiện này được xác định về mặt toán học, giá trị của bản đồ rõ ràng là cao. Ngược lại nếu số lượng của đối tượng chia ra theo những khái niệm tương đối như lớn, trung bình, nhỏ thì tính số lượng không được biểu hiện và tính chất xác định sẽ thấp.

Đảm bảo nguyên tắc toán học sẽ biểu hiện đặc tính số lượng hiện tượng tuỳ thuộc vào kiểu phụ thuộc toán học nào giữa đặc tính số lượng của hiện tượng và kích thước của ký hiệu biểu hiện nó trên bản đồ. Có 3 kiểu phụ thuộc toán học là: phụ thuộc theo đường theo diện tích và phụ thuộc theo thể tích.

  • Kiểu phụ thuộc theo đường

tức là đặc tính số lượng của hiện tượng được tính bằng độ dài của ký hiệu tương ứng trên bản đồ. Như vậy, chiều dài của ký hiệu sẽ tăng lên tương ứng với sự tăng lên về số lượng của hiện tượng.

Kiểu phụ thuộc này tuy rõ ràng, dễ thể hiện sự khác nhau về số lượng của hiện tượng nhưng ít được sử dụng vì chiều dài của các ký hiệu tăng lên tương đối nhanh cùng với sự tăng của số lượng hiện tượng. Nếu trên cùng một bản đồ mà sự chênh lệch về số lượng tối đa và số lượng tối thiểu của hiện tượng quá lớn thì việc dùng ký hiệu theo đường sẽ khó khăn.

  • Kiểu phụ thuộc theo diện tích

Đặc tính số lượng của hiện tượng tương ứng với diện tích của ký hiệu thể hiện trên bản đồ. Sự phụ thuộc này được xác định theo đơn vị diện tích của ký hiệu.

Ví dụ: Nếu quy định l mm2 của ký hiệu thể hiện số dân là 2.000 người của một điểm dân cư, vậy số dân của một điểm dân cư là 20.000 người thì diện tích của ký hiệu sẽ là 10 mm2.
Điều kiện duy nhất để so sánh các ký hiệu với nhau là giữa chúng phải có hình dạng giống nhau. Trước khi dựng các ký hiệu lên bản đồ cần phải tính toán kích thước cho từng ký hiệu. Như vậy, trước hết phải xác định được tỷ lệ cơ sở của ký hiệu nghĩa là xác định được đại lượng nhất định của chỉ số đối tượng tương ứng với diện tích của l mm2 ký hiệu.
Công thức để tính kích thước ký hiệu như sau: Cho A là chỉ số hiện lượng tương ứng với diện tích P, A = P. kích thước ký hiệu cần tìm là x = P. Nếu ký hiệu vòng tròn khác là d = 1 mm tương ứng với tỷ lệ cơ sở là M và theo công thức trên M = P,
Kiểu phụ thuộc vào diện tích được sử dụng nhiều nhất để biểu thị đặc tính số lượng của hiện tượng. Vì kích thước của ký hiệu tuy vân tăng theo sự tăng về số lượng hiện tượng nhưng sự tăng đó chậm hơn nhiều với sự tăng của kiểu phụ thuộc theo đường.
Ví dụ: Số lượng của hiện tượng tăng 100 lần, nhưng kích thước của ký hiệu lại tăng 100 là tăng có 10 lần.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, kiểu phụ thuộc theo diện tích cũng không đem lại kết quả khi có sự chênh lệch quá lớn của các chỉ tiêu tối đa và tối thiểu, ví dụ như sự khác biệt quá lớn giữa dân số thành thị và dân số vùng nông thôn.
  • Kiểu phụ thuộc theo thể tích

đặc tính số lượng của hiện tượng tương ứng với thể tích của ký hiệu. Các ký hiệu thường được dùng là các khối cầu, khối lập phương hay khối hình nón…

– Theo thang liên lục: kích thước của các ký hiệu sẽ biến đổi liên tục theo sự biến đổi về số lượng của hiện tượng. Việc biểu hiện bản đồ theo thang liên tục rất phức tạp vì phải tính toán kích thước cho mỗi ký hiệu theo số lượng của hiện tượng.

– Thang cấp bậc (gián đoạn): kích thước của ký hiệu không thay đổi như thang liên tục vì kích thước ký hiệu được chia theo lừng cấp. Mỗi một cấp phản ánh một số lượng gần nhau của các hiện tượng. Nhưng số lượng trong một cấp bậc sẽ được thể hiện bằng ký hiệu có độ lớn như nhau. Thang cấp bậc không thể xác định số lượng của hiện tượng chính xác như thang liên tục, nhưng lại dễ tri giác hơn, khi dùng bản đồ không cần phải sử dụng đến compa và các phép tính khác. Hơn nữa dùng thang cấp bậc có lợi là không sợ các chỉ số của hiện tượng hầu như không vượt qua thang tầng của nó.
Thang cấp bậc thường bao gồm các loại thang tầng sau:

– Thang cấp bậc theo cấp số cộng được xây dựng theo nguyên tắc sau: a, a + b, a + b + b’,….Thang này thích hợp để biểu thị đặc trưng những độ lớn biến đổi đồng nhất và không mạnh mẽ.

– Thang cấp bậc theo cấp số nhân được xây dựng theo nguyên tắc: a, ab, ab2, ab3….Thang này thích hợp để biểu thị đặc trưng những độ lớn biến đổi đồng nhất và không mạnh mẽ.

– Loại thang cấp bậc đứng trung gian giữa thang cấp bậc theo cấp số cộng và thang cấp bậc theo cấp số nhân là thang cấp bậc với khoảng cách tăng lên theo bội số. Ví dụ 20 – 30, 30 – 50, 50 – 90…ở đây khoảng cách tăng lên theo bội số là 2.
Ngoài ra còn loại thang bậc với khoảng cách quy ước, bậc thang này được dùng khi tương quan giữa các độ lớn không cho phép các loại thang cấp bậc nói trên.

  • Thể hiện chất lượng của hiện tượng

Chất lượng của hiện tượng được biểu hiện bằng hình dạng và màu sắc của ký hiệu. Ví dụ: trên các bản đồ kinh tế dùng hình tròn biểu thị cho các ngành công nghiệp; thí dụ màu đỏ biểu thị khu công nghiệp cơ khí luyện kim, màu xanh là công nghiệp dệt….Biểu thị các mỏ khoáng sản bằng các ký hiệu khác nhau: hình vuông màu đen biểu thị mỏ than, hình tam giác đều màu đen biểu thị mỏ sắt…. Phương pháp ký hiệu có khả năng truyền đạt được các đặc trưng chất lượng, số lượng, cấu trúc, sự phát triển của các đối tượng hoặc hiện tượng. Có nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề dùng hình dạng hay màu sắc của ký hiệu để biểu hiện chất lượng của hiện tượng, hình thức nào dễ phân biệt hơn. Có ý kiến cho sự khác nhau về màu sắc để phân biệt sự khác nhau về hình dạng. Thực ra không hoàn toàn như vậy. Màu sắc cũng như ký hiệu đều có thể gần giống nhau, khó phân biệt được nếu như kích thước của ký hiệu quá nhỏ bé. Như thế, sử dụng màu sắc hay hình dạng để phản ánh sự khác nhau về chất lượng của hiện tượng không thể giải quyết một cách quyết đoán mà phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể

+ Thể hiện cấu trúc của hiện tượng:

Trường hợp ở cùng một địa điểm có đến vài hiện tượng thì việc biểu hiện sẽ trở nên phức tạp nếu như ở đây phải bố trí nhiều ký hiệu. Giải quyết vấn đề này người ta thường kết hợp chúng vào cùng một ký hiệu có tổng lượng chung, trong đó chia ra thành những phần theo tỷ lệ của các hiện tượng. Ví dụ: Một trung tâm công nghiệp đa ngành, trong ký hiệu tổng lượng phân ra nhiều phần phù hợp với tỷ lệ của các ngành công nghiệp. Một điểm dân cư có nhiều dân tộc sinh sống, thể hiện tổng số dân của điểm dân cư bằng độ lớn của ký hiệu tổng lượng chung (hình tròn hay hình vuông) trong đó lại chia ra từng phần phù hợp với tỷ lệ dân số của từng dân lộc so với tổng số dân của điểm dân cư đó.

+ Thể hiện động lực của hiện tượng

Để biểu thị sự phát triển của hiện tượng nào đó, người ta dùng ký hiệu tăng trưởng, tức là dùng một hay hệ thống các ký hiệu đặt chồng lên nhau Phương pháp ký hiệu có nhiều khả năng biểu hiện tất cả các đặc tính của hiện tượng (số lượng, chất lượng, cấu trúc, động lực) phân bố ở các điểm riêng biệt của lãnh thổ. Hơn nữa phương pháp này mang tính cụ thể cao về mặt địa lý, cho phép ta nêu ra các quy luật phân bố của hiện tượng một cách rõ ràng nhất. Tuy nhiên phương pháp này cũng đòi hỏi yêu cầu cao đối với người thành lập bản đồ đó là:

– Tính chất chi tiết về lính địa lý của tài liệu, số liệu phải chi tiết và chính xác đối với từng điểm phân bố của hiện tượng.

– Trên bản đồ phải xác định được vị trí phân bổ từng điểm của hiện tượng. Thiếu một trong hai điều kiện trên, phương pháp ký hiệu khó có thể thực hiện được.

2. Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp chấm điểm

Phương pháp chấm điểm dùng để biểu hiện các hiện tượng phân tán nhỏ trên lãnh thổ, các hiện tượng được biểu hiện bằng sự phân bố các điểm trên bản đồ. Mỗi một điểm phù hợp với một số lượng hiện tượng đã định.
Phương pháp này dùng để thể hiện sự phân bố dân cư nông thôn. Thực chất của phương pháp này là những “chấm điểm” ứng với một số liệu nhất định của hiện tượng và được bố trí ở chỗ tương ứng của hiện tượng trên bản đồ.
Sự xác định vị trí của phương pháp này không cao, nó chỉ biểu hiện sự phân bổ về đặc tính số lượng của hiện tượng và nêu lên phong cảnh chung về sự phân bố địa lý của hiện tượng. Vì thế phương pháp này chỉ được dùng cho các bản đồ kinh tế – xã hội có tỷ lệ nhỏ, tính khái quát cao.
 Số lượng điểm của hiện tượng được thể hiện trên bản đồ có liên quan tới trọng số của mỗi điểm. Nếu trọng số nhỏ thì số lượng điểm càng nhiều, ngược lại trọng số lớn thì số lượng điểm càng ít. Chính vì thế vấn đề quan trọng nhất của phương pháp chấm điểm là việc chọn trọng số của điểm cho hợp lý.
Chọn trọng số của các điểm căn cứ vào mức độ tập trung của các hiện tượng trên các điểm cụ thể của lãnh thổ và tỷ lệ bản đồ vì tỷ lệ bản đồ quyết định việc phân bổ các điểm ở trên bản đồ, trọng số nhỏ thì số lượng điểm sẽ nhiều, khi biểu hiện trên bản đồ nếu diện tích các điểm nhỏ quá sẽ khó nhìn. Ngoài ra, tình trạng phân bố của các hiện tượng cũng liên quan tới việc chọn trọng số.
Trong phương pháp chấm điểm, người ta sử dụng rộng rãi các loại ký hiệu hình học: tròn, vuông, tam giác…và để phân biệt với các ký hiệu trong phương pháp ký hiệu, phương pháp chấm điểm thường dùng các ký hiệu có kích thước bằng nhau được đặt rải rác trên lãnh thổ.
Trong trường hợp phân bố số lượng của hiện tượng quá chênh lệch, không thể chọn một trọng số phù hợp chung được, người ta có thể chọn hai hoặc ba cấp trọng số khác nhau, nhưng không nên chọn quá nhiều cấp trọng số và chỉ nên áp dụng trong điều kiện số lượng hiện tượng tương phản rõ ràng theo từng khu vực nhất định. Phương pháp chấm điểm bị hạn chế trong việc biểu hiện chất lượng và động lực của hiện tượng. Màu sắc của chấm điểm thường được dùng để thể hiện chất lượng và động lực của hiện tượng. Ví dụ, chấm màu hồng biểu thị nam giới, chấm màu xanh biểu thị nữ giới..

3.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp biểu đồ định vị

 Có những hiện tượng phân bố liên tục hoặc trên toàn bộ mặt đất, có sự biến đổi theo chu kỳ và việc nghiên cứu chúng được tiến hành ở những điểm nhất định như các hiện tượng trong khí quyển. Trường hợp này người ta thường sử dụng phương pháp biểu đồ định vị tức là các biểu đồ đặt ở các điểm nhất định để thể hiện
Phương pháp này thể hiện đặc trưng những hiện tượng theo mùa và những hiện tượng có tính chất chu kỳ như gió, mưa, nhiệt độ…Các biểu đồ còn biểu thị tiến trình, độ lớn, xác suất của các hiện tượng. Ví dụ tiến trình hàng năm của nhiệt độ, lượng mưa theo tháng…. Các biểu đồ định vị được trình bày theo các hình thức khác nhau theo hệ tọa độ vuông góc, hệ tọa độ cực ở dạng một đường cong, hay dạng biểu đồ hình cột

4.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp ký hiệu tuyến

 Phương pháp này dùng để thể hiện các hiện tượng có sự phân bố tuyến tính rõ rệt trong không gian như địa giới hành chính, đường bờ nước, sông ngòi, đường giao thông, ranh giới rừng, đất trồng…Những đặc trưng số lượng và chất lượng cùng với sự biến đổi của hiện tượng theo thời gian được thể hiện thông qua kích thước, màu sắc và cấu trúc hình vẽ của ký hiệu tuyến tính.

5.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp ký hiệu đường chuyển động

 Ký hiệu đường chuyển động được dùng để biểu hiện sự di chuyển của các đối tg và hiện tượng ở trên bản đồ, các hiện tượng đó không kể thuộc lĩnh vực nào gồm cả tự nhiên – kinh tế – chính trị – xã hội. Đó là những hiện tượng như: các dòng biển, các khối không khí, sự di cư của các loài chim, các kế hoạch chiến lược, chiến thuật, hướng tiến quân…Sự di chuyển của các đối tượng và hiện tượng hết sức đa dạng và có nhiều tính chất khác nhau. Theo loại hình di chuyển, có các hiện tượng di chuyển trên mặt đất, trên mặt nước, trên không trung; theo thời gian có sự di chuyển một lần (ví dụ đi tham quan du lịch), di chuyển lặp lại có chu kỳ như gió mùa, di cư của chim, không có chu kỳ như gió bão, gió xoáy.

Do đặc điểm của các hiện tượng đã nêu trên, phương pháp ký hiệu đường chuyển động được biểu hiện dưới hai dạng khác nhau: dạng vectơ (thể hiện bằng các mũi tên), dạng đường nét và dạng băng.

Dạng véctơ được sử dụng rộng rãi vì nó trực quan dễ thấy hướng di chuyển. Hướng của véc tơ cho biết hướng di chuyển của hiện tượng hay hướng của mối liên hệ, hướng gió…Độ rộng hoặc chiều dài của véc tơ biểu hiện chất lượng của hiện tượng, cấu trúc của hiện tượng được biểu hiện bằng sự phân chia theo tỷ lệ trong véc tơ, sự phân chia đó có thể theo chiều ngang hay chiều dọc của véc tơ . Khi phản ánh cường độ của hiện tượng, ví dụ lưu lượng chuyên chở khách, hàng hoá hoặc cần thể hiện cả lưu lượng, cả thể loại, ta dùng ký hiệu chuyển động ở dạng “băng” (băng tải, đai) được đặt dọc theo trục đường di chuyển. Chiều rộng của dải băng thể hiện chất lượng của hiện tượng. Cấu trúc của hiện tượng được thể hiện bằng cách phân chia dải băng thành các bộ phận theo tỷ lệ với trọng số của các hiện tượng hợp thành và được phân chia bằng màu sắc hay kẻ vạch.

Tóm lại: phương pháp ký hiệu đường chuyển động cho biết sự vận động của các hiện tượng và trình bày rõ cả hướng vận động, phương thức và tốc độ di chuyển, số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu hiện tượng vận động.

6.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp khoanh vùng (vùng phân bố)

 Phương pháp này biểu thị những hiện tượng không phân bố đều khắp trên lãnh thổ mà chỉ có ở từng vùng đất nhất định. Ví dụ các bản đồ chính trị với diện tích riêng của từng nước. Một đặc điểm quan trọng của phương pháp khoanh vùng là các vùng thuộc các hiện tượng khác nhau có thể không kề nhau, hoặc xen kẽ nhau và cũng có thể che nhau hoàn toàn do phụ thuộc vào vị trí tương quan thực tế của các hiện tượng đó. Khi thể hiện các vùng phân bố trên bản đồ, trước hết xác định chính xác vùng ranh giới hoặc chỉ cần biết khu vực đó có hiện tượng, sau đó dùng nét gạch hoặc ký hiệu hay viết tên hiện tượng vào vùng đó.

7.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp đường đẳng trị

 Đường đẳng trị là những đường nối liền các điểm có cùng chỉ số về số lượng của hiện tượng trên bản đồ. Phương pháp đường đẳng trị dùng để biểu thị các hiện tượng có sự phân bố liên tục hoặc rải rác đều khắp bề mặt như: độ cao của bề mặt lục địa (đường bình độ), độ sâu của đáy biển (đường đẳng sâu), nhiệt độ không khí (đường đẳng nhiệt)… Phương pháp đường đẳng trị còn được sử dụng để thể hiện những hiện tượng phân bố rải khắp bề mặt nhưng không liên tục mà tập trung dọc theo các điểm hoặc các diện tích riêng biệt, trường hợp này dùng cho tỷ lệ nhỏ vì bản đồ chỉ cho ta khái niệm tương đối với số lượng. Ví dụ: biểu diễn mật độ phân bố dân cư. Phương pháp này căn bản là biểu hiện đặc tính số lượng của hiện tượng. Đặc tính số lượng của hiện tượng được phản ánh không phải bằng một đường đẳng trị mà là một hiện tượng đường đẳng trị và có thể xác định được số lượng ở bất kỳ vị trí nào trên bản đồ. Nhấn mạnh thêm đặc tính số lượng và để cho bản đồ trực quan hơn, người ta thường kết hợp phương pháp đường đẳng trị với phần tầng màu, chú ý cường độ màu phải phản ánh được hướng và trình tự của sự chuyển tiếp từ các trị số thấp nhất đến các trị số cao nhất. Ví dụ biểu diễn địa hình và mật độ dân số… Để vẽ được hệ thống đường đẳng trị, phải xác định được vị trí các điểm và chỉ số số lượng của hiện tượng tại điểm đó. Số điểm càng nhiều, càng dày đặc thì đường đẳng trị càng chính xác. Khi dựng hệ thống đường đẳng trị việc xác định khoảng cách giữa các đường là rất quan trọng. Về nguyên tắc khoảng cách giữa các đường đẳng trị trên một bản đồ có độ lớn bằng nhau là lôgic nhất. Khoảng cách giữa các đường đẳng trị tuỳ thuộc vào đặc điểm của hiện tượng, tỷ lệ và mục đích của bản đồ. Ngoài khả năng biểu thị đặc tính số lượng của hiện tượng, phương pháp đường đẳng trị còn có thể biểu hiện một vài khác biệt về chất lượng hiện tượng qua màu sắc, hình dạng của đường đẳng trị và ngay cả số lượng hiện tượng. Các đường đẳng trị cũng có thể cho biết động lực của hiện tượng như sự thay đổi lớn của hiện tượng theo thời gian (sự gia tăng dân số qua các năm), sự di chuyển của hiện tượng.

8.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp nền chất lượng

 Để nêu lên đặc trưng định tính cho các hiện tượng phân bố liên tục trên bề mặt dết (lớp phủ thổ nhưỡng, thực vật…hay các hiện tượng có sự phân bố phân tán theo khối dân cư) người ta thường dùng phương pháp nền chất lượng để thể hiện trên bản đồ. Như vậy, phương pháp nền chất lượng là phương pháp biểu hiện các hiện lượng, còn đặc tính số lượng thì phương pháp này không có khả năng biểu thị trực tiếp.
Các bản đồ được xây dựng bằng phương pháp nền chất lượng về mặt hình thức la thấy, ở trên đó có những khu vực nhất định được giới hạn bằng những đường ranh giới rõ ràng, trong mỗi khu vực đó được phân biệt bằng màu sắc, bằng kẻ vạch hoặc đánh số khu vực. Vấn đề đầu tiên khi xây dựng bản đồ theo phương pháp này là phải vạch ra được đường ranh giới giữa các khu vực và đặc điểm trong các chú thích theo dấu hiệu định tính. Đặc tính chất lượng của lãnh thổ có thể là một chỉ số nào đó hoặc là tổng hợp các chỉ số. Việc phân loại các hiện tượng có thể đối với một hiện tượng cụ thể, nhưng phải đảm bảo sự thống nhất về tính chất liên tục của bảng phân loại, cần lấy đấu hiệu chính có tính chất quyết định làm cơ sở cho bảng phân loại. Nếu phân loại tổng hợp thì việc phân vùng được thực hiện theo những chỉ số khác nhau và đưa ra những dấu hiệu chính.
Ví dụ: khi thành lập bản đồ thành phần dân tộc Việt Nam, trước hết phải tiến hành phân loại các dân tộc Việt Nam theo ngôn ngữ: dòng Nam á, dòng Nam Đảo (Malaipôlinêxia) và dòng Hán Tạng. Sau đó lại chia tiếp thành các phân hệ, mỗi phân hệ bao gồm một số dân tộc, các phân hệ là: ngôn ngữ Việt – Mường, ngôn ngữ Môn – Khơ me, ngôn ngữ Tày – Thái…Sau đó dùng phương pháp nền chất lượng thể hiện các vùng lãnh thổ của các dân tộc theo ngôn ngữ, kết hợp với phương pháp vùng phân bố thể hiện các dân tộc sống xen kẽ nhau.

9.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp Cartodiagram

 Phương pháp này còn gọi là phương pháp bản đồ – biểu đồ là phương pháp thể hiện sự phân bố của các hiện tượng bằng các biểu đồ (diagram) đặt trong các đơn vị phân chia lãnh thổ (thường là đơn vị hành chính). Biểu đồ biểu thị độ lớn tổng cộng của hiện tượng trong đơn vị lãnh thổ. Phương pháp Cartodiagram có khả năng thể hiện được các đặc tính số lượng, chất lượng cấu trúc và động lực của hiện tượng.

Phương pháp Cartodiagram được sử dụng có hiệu quả để thể hiện sự phân bố không gian của các hiện tượng, đối tượng nghiên cứu, với các giá trị tuyệt đối hoặc tương đối của chúng. Đặc tính số lượng của hiện tượng được biểu thị bằng kích thước của các biểu đồ (diagram).

Trường hợp các biểu đồ thể hiện các giá trị tương đối (tỷ lệ phần trăm) thường chậm và trở nên lạc hậu hơn so với giá trị tuyệt đối, do vậy giá trị tương đối được lâu dài hơn so với các bản đồ Cartodiagram thể hiện giá trị tuyệt đối. Ví dụ thể hiện sự tăng dân số tự nhiên của các xã bằng biểu đồ cột. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên được tính bằng hiệu số giữa tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết, đơn vị là %. Một trong những khó khăn lớn khi thành lập bản đồ bằng phương pháp Cartodiagram là việc chia tỷ lệ của các biểu đồ (diagram) sao cho phù hợp với sự chênh lệch của các chỉ liêu lớn nhất và nhỏ nhất. Nếu kích thước chiếm mất nhiều diện tích, bản đồ sẽ rườm rà và khó đọc. Một trong những nguyên tắc quan trọng bảo đảm độ chính xác và mỹ thuật của bản đồ là các biểu đồ không được đặt chờm ra ngoài biên giới lãnh thổ thành lập bản đồ. Để dễ dàng so sánh đối chiếu về số lượng hiện tượng ta có thể không bố trí trong giới hạn hành chính một bản đồ đường (cột) hay diện tích (vuông hoặc tròn) có số lượng tổng cộng mà thay băng các nhóm những hình có giá trị tương đương nhau (các hình vuông nhỏ hay tròn nhỏ…) mỗi hình nhỏ đó biểu thị một số lượng nhất định của các hiện tượng được biểu hiện. Như thế đặc trưng số lượng của hiện tượng dại diện cho một đơn vị hành chính bằng tổng số các hình nhỏ với chỉ số lượng được chọn. Chất lượng của hiện lượng được thể hiện bằng màu sắc hoặc hình dạng của các hình nhỏ. Ví dụ biểu hiện tổng số dân theo nam nữ của các xã bằng nhóm những hình có giá trị tương đương nhau

Phương pháp Cartodiagram còn thể hiện được cả cấu trúc của hiện tượng bằng cách chia các biểu đồ thành những phần nhỏ tương ứng với các thành phần của hiện tượng. Ngoài những khả năng trên, phương pháp Cartodiagram còn thể hiện được cả động lực của hiện tượng. Động lực của hiện tượng được thể hiện bằng nhiều cách: có thể dựng các biểu đồ có độ lớn khác nhau tương ứng với số lượng hiện tượng qua các thời kỳ khác nhau đặt lồng lên nhau như phương pháp ký hiệu. Hoặc có thể bố trí nhiều hình cột đặt cách nhau để thể hiện sự phân bố dân số qua các năm. Phương pháp Cartodiagram được sử dụng nhiều để thành lập các bản đồ kinh tế – xã hội, vì phương pháp này có những ưu điểm cơ bản sau:

* Bằng phương pháp Cartodiagram, trên cùng một bản đồ có thể thể hiện một vài chỉ tiêu khác nhau, thể hiện rõ ràng mối quan hệ qua lại và sự kết hợp các yếu tố nội dung thể hiện trên bản đồ. Khì nghiên cứu lập các loại bản đồ, các mối tương quan số lượng được tính toán một cách chính xác và đầy đủ.

* Các bản đồ được thành lập bằng phương pháp Cartodiagram thể hiện được nội dung nghiên cứu một cách rõ ràng, dễ đọc, dễ so sánh.

Về mặt hình thức biểu hiện bề ngoài thì các bản đồ (diagram) được sử dụng trong phương pháp Cartodiagram rất giống với các ký hiệu được dùng trong phương pháp ký hiệu. Nhưng thực ra giữa hai phương pháp này lại khác nhau về nguyên tắc. Các ký hiệu trong phương pháp ký hiệu được định vị theo điểm, tức theo vị trí chính xác của đối tượng được thể hiện, còn các biểu đồ trong phương pháp Cartodiagram thể hiện số lượng của hiện tượng được thống kê trong từng đơn vị lãnh thổ gắn liền với sự phân chia lãnh thổ. Do vậy buộc phải có ranh giới phân chia lãnh thổ.

10.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp Cartogram (phương pháp đồ giải)

Đây là phương pháp biểu thị giá trị tương đối, các chỉ tiêu trung bình của một hiện tượng nào đó trong giới hạn mỗi đơn vị lãnh thổ hoặc các đơn vị hành chính. Đó là mật độ dân số (số người nói chung trên 1 km2, tổng số dân trên tổng diện tích), mật độ lao động (tổng số lao động trên tổng diện tích canh tác)… Phương pháp Cartogram cũng như phương pháp Cartodiagram đều dùng các số liệu thống kê và là phương pháp phản ánh trực quan các số liệu đó. Vì vậy có khi còn được gọi là phương pháp thống kê và chủ yếu được dùng để phản ánh các hiện tượng trên bản đồ kinh tế – xã hội.
Khác với phương pháp Cartodiagram, phương pháp Cartogram không nêu lên các chỉ tiêu tuyệt đối mà chỉ đưa ra các chỉ số tương đối. Căn cứ vào mật độ các ký hiệu kẻ gạch hoặc cường độ màu sắc để phân biệt mật độ của chỉ tiêu thành lập bản đồ. Hạn chế lớn nhất của phương pháp này là thể hiện dàn đều các ký hiệu trên diện tích lãnh thổ, có nghĩa là giả định sự phân bố của các hiện tượng đối tượng nghiên cứu tập bản đồ là đồng đều ở tất cả mọi nơi trong phạm vi một lãnh thổ. Nhưng trên thực tế ít có trường hợp như vậy. Sai số sẽ càng lớn nếu các đơn vị lãnh thổ càng lớn, đặc biệt trong mỗi đơn vị có nhiều khác biệt lớn.

Ưu điểm của phương pháp Cartogram là đơn giản, dễ tính toán, tính trực quan cao. Đặc biệt phương pháp này thể hiện được sự biến đổi cường độ của hiện tượng nghiên cứu một cách rõ ràng, liên tục.

Chất lượng của Cartogram phụ thuộc vào hệ thống phân chia các đơn vị lãnh thổ và số lượng các thang bậc thể hiện nội dung số liệu. Càng ít đơn vị phân chia lãnh thổ thì Cartogram càng thể hiện được tết các đặc trưng địa lý của các hiện tượng và đối tượng thành lập bản đồ. Càng nhiều bậc thang thì mức độ chi tiết của nội dung bản đồ càng cao nhưng bản đồ lại khó đọc, nói chung số lượng thang bậc không nên quá nhiều, chỉ từ 5 – 7 bậc là vừa. Vì thế, phải tuỳ theo mục đích thành lập mà chọn thang bậc sao cho hợp lý.

Trong thực tế nghiên cứu, xây dựng các bản đồ, chúng ta thấy mỗi phương pháp đều có những đặc điểm riêng, nên phải lựa chọn phương pháp biểu hiện cho thích hợp, thường là phải phối hợp nhiều phương pháp để thể hiện nhiều nội dung và nâng cao chất lượng bản đồ.

Nguồn: Giáo trình bản đồ địa chính, Nguyễn Thị Kim Hiệp, Vũ Thanh Thủy, Võ Quốc Việt,
Phan Đình Binh, Lê Văn Thơ, Xuất bản nông nghiệp Hà Nội
Previous articleKhái niệm về hình dạng, kích thước quả đất và mặt thủy chuẩn
Next articleTổng quan về hệ thống GPS – một trong những hệ thống định vị toàn cầu bạn cần biết

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.