Nội dung chính
1. Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp ký hiệu
Phương pháp ký hiệu không những chỉ nêu được đặc điểm phân bố của đối tượng mà còn có khả năng thể hiện được những đặc trưng về số lượng, chất lượng cũng như cấu trúc và động lực của các đối tượng nữa.
Thể hiện đặc trưng về số lượng hiện tượng thông qua kích thước của ký hiệu, đôi khi người ta còn dùng cả màu sắc hay nét gạch bên trong ký hiệu. Sự liên hệ giữa số lượng hiện tượng ở từng điểm bằng kích thước của ký hiệu được xây dựng xuất phát từ mức độ xác định toán học khác nhau tuỳ theo việc lựa chọn chỉ số biểu hiện.
Nếu như số lượng của đối tượng cụ thể ở từng điểm được phản ánh qua kích thước tương ứng của từng ký hiệu thì sự biểu hiện này được xác định về mặt toán học, giá trị của bản đồ rõ ràng là cao. Ngược lại nếu số lượng của đối tượng chia ra theo những khái niệm tương đối như lớn, trung bình, nhỏ thì tính số lượng không được biểu hiện và tính chất xác định sẽ thấp.
Đảm bảo nguyên tắc toán học sẽ biểu hiện đặc tính số lượng hiện tượng tuỳ thuộc vào kiểu phụ thuộc toán học nào giữa đặc tính số lượng của hiện tượng và kích thước của ký hiệu biểu hiện nó trên bản đồ. Có 3 kiểu phụ thuộc toán học là: phụ thuộc theo đường theo diện tích và phụ thuộc theo thể tích.
- Kiểu phụ thuộc theo đường
tức là đặc tính số lượng của hiện tượng được tính bằng độ dài của ký hiệu tương ứng trên bản đồ. Như vậy, chiều dài của ký hiệu sẽ tăng lên tương ứng với sự tăng lên về số lượng của hiện tượng.
Kiểu phụ thuộc này tuy rõ ràng, dễ thể hiện sự khác nhau về số lượng của hiện tượng nhưng ít được sử dụng vì chiều dài của các ký hiệu tăng lên tương đối nhanh cùng với sự tăng của số lượng hiện tượng. Nếu trên cùng một bản đồ mà sự chênh lệch về số lượng tối đa và số lượng tối thiểu của hiện tượng quá lớn thì việc dùng ký hiệu theo đường sẽ khó khăn.
- Kiểu phụ thuộc theo diện tích
Đặc tính số lượng của hiện tượng tương ứng với diện tích của ký hiệu thể hiện trên bản đồ. Sự phụ thuộc này được xác định theo đơn vị diện tích của ký hiệu.
- Kiểu phụ thuộc theo thể tích
đặc tính số lượng của hiện tượng tương ứng với thể tích của ký hiệu. Các ký hiệu thường được dùng là các khối cầu, khối lập phương hay khối hình nón…
– Theo thang liên lục: kích thước của các ký hiệu sẽ biến đổi liên tục theo sự biến đổi về số lượng của hiện tượng. Việc biểu hiện bản đồ theo thang liên tục rất phức tạp vì phải tính toán kích thước cho mỗi ký hiệu theo số lượng của hiện tượng.
– Thang cấp bậc (gián đoạn): kích thước của ký hiệu không thay đổi như thang liên tục vì kích thước ký hiệu được chia theo lừng cấp. Mỗi một cấp phản ánh một số lượng gần nhau của các hiện tượng. Nhưng số lượng trong một cấp bậc sẽ được thể hiện bằng ký hiệu có độ lớn như nhau. Thang cấp bậc không thể xác định số lượng của hiện tượng chính xác như thang liên tục, nhưng lại dễ tri giác hơn, khi dùng bản đồ không cần phải sử dụng đến compa và các phép tính khác. Hơn nữa dùng thang cấp bậc có lợi là không sợ các chỉ số của hiện tượng hầu như không vượt qua thang tầng của nó.
Thang cấp bậc thường bao gồm các loại thang tầng sau:
– Thang cấp bậc theo cấp số cộng được xây dựng theo nguyên tắc sau: a, a + b, a + b + b’,….Thang này thích hợp để biểu thị đặc trưng những độ lớn biến đổi đồng nhất và không mạnh mẽ.
– Thang cấp bậc theo cấp số nhân được xây dựng theo nguyên tắc: a, ab, ab2, ab3….Thang này thích hợp để biểu thị đặc trưng những độ lớn biến đổi đồng nhất và không mạnh mẽ.
– Loại thang cấp bậc đứng trung gian giữa thang cấp bậc theo cấp số cộng và thang cấp bậc theo cấp số nhân là thang cấp bậc với khoảng cách tăng lên theo bội số. Ví dụ 20 – 30, 30 – 50, 50 – 90…ở đây khoảng cách tăng lên theo bội số là 2.
Ngoài ra còn loại thang bậc với khoảng cách quy ước, bậc thang này được dùng khi tương quan giữa các độ lớn không cho phép các loại thang cấp bậc nói trên.
- Thể hiện chất lượng của hiện tượng
Chất lượng của hiện tượng được biểu hiện bằng hình dạng và màu sắc của ký hiệu. Ví dụ: trên các bản đồ kinh tế dùng hình tròn biểu thị cho các ngành công nghiệp; thí dụ màu đỏ biểu thị khu công nghiệp cơ khí luyện kim, màu xanh là công nghiệp dệt….Biểu thị các mỏ khoáng sản bằng các ký hiệu khác nhau: hình vuông màu đen biểu thị mỏ than, hình tam giác đều màu đen biểu thị mỏ sắt…. Phương pháp ký hiệu có khả năng truyền đạt được các đặc trưng chất lượng, số lượng, cấu trúc, sự phát triển của các đối tượng hoặc hiện tượng. Có nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề dùng hình dạng hay màu sắc của ký hiệu để biểu hiện chất lượng của hiện tượng, hình thức nào dễ phân biệt hơn. Có ý kiến cho sự khác nhau về màu sắc để phân biệt sự khác nhau về hình dạng. Thực ra không hoàn toàn như vậy. Màu sắc cũng như ký hiệu đều có thể gần giống nhau, khó phân biệt được nếu như kích thước của ký hiệu quá nhỏ bé. Như thế, sử dụng màu sắc hay hình dạng để phản ánh sự khác nhau về chất lượng của hiện tượng không thể giải quyết một cách quyết đoán mà phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể
+ Thể hiện cấu trúc của hiện tượng:
Trường hợp ở cùng một địa điểm có đến vài hiện tượng thì việc biểu hiện sẽ trở nên phức tạp nếu như ở đây phải bố trí nhiều ký hiệu. Giải quyết vấn đề này người ta thường kết hợp chúng vào cùng một ký hiệu có tổng lượng chung, trong đó chia ra thành những phần theo tỷ lệ của các hiện tượng. Ví dụ: Một trung tâm công nghiệp đa ngành, trong ký hiệu tổng lượng phân ra nhiều phần phù hợp với tỷ lệ của các ngành công nghiệp. Một điểm dân cư có nhiều dân tộc sinh sống, thể hiện tổng số dân của điểm dân cư bằng độ lớn của ký hiệu tổng lượng chung (hình tròn hay hình vuông) trong đó lại chia ra từng phần phù hợp với tỷ lệ dân số của từng dân lộc so với tổng số dân của điểm dân cư đó.
+ Thể hiện động lực của hiện tượng
Để biểu thị sự phát triển của hiện tượng nào đó, người ta dùng ký hiệu tăng trưởng, tức là dùng một hay hệ thống các ký hiệu đặt chồng lên nhau Phương pháp ký hiệu có nhiều khả năng biểu hiện tất cả các đặc tính của hiện tượng (số lượng, chất lượng, cấu trúc, động lực) phân bố ở các điểm riêng biệt của lãnh thổ. Hơn nữa phương pháp này mang tính cụ thể cao về mặt địa lý, cho phép ta nêu ra các quy luật phân bố của hiện tượng một cách rõ ràng nhất. Tuy nhiên phương pháp này cũng đòi hỏi yêu cầu cao đối với người thành lập bản đồ đó là:
– Tính chất chi tiết về lính địa lý của tài liệu, số liệu phải chi tiết và chính xác đối với từng điểm phân bố của hiện tượng.
– Trên bản đồ phải xác định được vị trí phân bổ từng điểm của hiện tượng. Thiếu một trong hai điều kiện trên, phương pháp ký hiệu khó có thể thực hiện được.
2. Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp chấm điểm
3.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp biểu đồ định vị
4.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp ký hiệu tuyến
5.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp ký hiệu đường chuyển động
Do đặc điểm của các hiện tượng đã nêu trên, phương pháp ký hiệu đường chuyển động được biểu hiện dưới hai dạng khác nhau: dạng vectơ (thể hiện bằng các mũi tên), dạng đường nét và dạng băng.
Dạng véctơ được sử dụng rộng rãi vì nó trực quan dễ thấy hướng di chuyển. Hướng của véc tơ cho biết hướng di chuyển của hiện tượng hay hướng của mối liên hệ, hướng gió…Độ rộng hoặc chiều dài của véc tơ biểu hiện chất lượng của hiện tượng, cấu trúc của hiện tượng được biểu hiện bằng sự phân chia theo tỷ lệ trong véc tơ, sự phân chia đó có thể theo chiều ngang hay chiều dọc của véc tơ . Khi phản ánh cường độ của hiện tượng, ví dụ lưu lượng chuyên chở khách, hàng hoá hoặc cần thể hiện cả lưu lượng, cả thể loại, ta dùng ký hiệu chuyển động ở dạng “băng” (băng tải, đai) được đặt dọc theo trục đường di chuyển. Chiều rộng của dải băng thể hiện chất lượng của hiện tượng. Cấu trúc của hiện tượng được thể hiện bằng cách phân chia dải băng thành các bộ phận theo tỷ lệ với trọng số của các hiện tượng hợp thành và được phân chia bằng màu sắc hay kẻ vạch.
Tóm lại: phương pháp ký hiệu đường chuyển động cho biết sự vận động của các hiện tượng và trình bày rõ cả hướng vận động, phương thức và tốc độ di chuyển, số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu hiện tượng vận động.
6.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp khoanh vùng (vùng phân bố)
7.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp đường đẳng trị
8.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp nền chất lượng
9.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp Cartodiagram
Phương pháp Cartodiagram được sử dụng có hiệu quả để thể hiện sự phân bố không gian của các hiện tượng, đối tượng nghiên cứu, với các giá trị tuyệt đối hoặc tương đối của chúng. Đặc tính số lượng của hiện tượng được biểu thị bằng kích thước của các biểu đồ (diagram).
Trường hợp các biểu đồ thể hiện các giá trị tương đối (tỷ lệ phần trăm) thường chậm và trở nên lạc hậu hơn so với giá trị tuyệt đối, do vậy giá trị tương đối được lâu dài hơn so với các bản đồ Cartodiagram thể hiện giá trị tuyệt đối. Ví dụ thể hiện sự tăng dân số tự nhiên của các xã bằng biểu đồ cột. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên được tính bằng hiệu số giữa tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết, đơn vị là %. Một trong những khó khăn lớn khi thành lập bản đồ bằng phương pháp Cartodiagram là việc chia tỷ lệ của các biểu đồ (diagram) sao cho phù hợp với sự chênh lệch của các chỉ liêu lớn nhất và nhỏ nhất. Nếu kích thước chiếm mất nhiều diện tích, bản đồ sẽ rườm rà và khó đọc. Một trong những nguyên tắc quan trọng bảo đảm độ chính xác và mỹ thuật của bản đồ là các biểu đồ không được đặt chờm ra ngoài biên giới lãnh thổ thành lập bản đồ. Để dễ dàng so sánh đối chiếu về số lượng hiện tượng ta có thể không bố trí trong giới hạn hành chính một bản đồ đường (cột) hay diện tích (vuông hoặc tròn) có số lượng tổng cộng mà thay băng các nhóm những hình có giá trị tương đương nhau (các hình vuông nhỏ hay tròn nhỏ…) mỗi hình nhỏ đó biểu thị một số lượng nhất định của các hiện tượng được biểu hiện. Như thế đặc trưng số lượng của hiện tượng dại diện cho một đơn vị hành chính bằng tổng số các hình nhỏ với chỉ số lượng được chọn. Chất lượng của hiện lượng được thể hiện bằng màu sắc hoặc hình dạng của các hình nhỏ. Ví dụ biểu hiện tổng số dân theo nam nữ của các xã bằng nhóm những hình có giá trị tương đương nhau
Phương pháp Cartodiagram còn thể hiện được cả cấu trúc của hiện tượng bằng cách chia các biểu đồ thành những phần nhỏ tương ứng với các thành phần của hiện tượng. Ngoài những khả năng trên, phương pháp Cartodiagram còn thể hiện được cả động lực của hiện tượng. Động lực của hiện tượng được thể hiện bằng nhiều cách: có thể dựng các biểu đồ có độ lớn khác nhau tương ứng với số lượng hiện tượng qua các thời kỳ khác nhau đặt lồng lên nhau như phương pháp ký hiệu. Hoặc có thể bố trí nhiều hình cột đặt cách nhau để thể hiện sự phân bố dân số qua các năm. Phương pháp Cartodiagram được sử dụng nhiều để thành lập các bản đồ kinh tế – xã hội, vì phương pháp này có những ưu điểm cơ bản sau:
* Bằng phương pháp Cartodiagram, trên cùng một bản đồ có thể thể hiện một vài chỉ tiêu khác nhau, thể hiện rõ ràng mối quan hệ qua lại và sự kết hợp các yếu tố nội dung thể hiện trên bản đồ. Khì nghiên cứu lập các loại bản đồ, các mối tương quan số lượng được tính toán một cách chính xác và đầy đủ.
* Các bản đồ được thành lập bằng phương pháp Cartodiagram thể hiện được nội dung nghiên cứu một cách rõ ràng, dễ đọc, dễ so sánh.
Về mặt hình thức biểu hiện bề ngoài thì các bản đồ (diagram) được sử dụng trong phương pháp Cartodiagram rất giống với các ký hiệu được dùng trong phương pháp ký hiệu. Nhưng thực ra giữa hai phương pháp này lại khác nhau về nguyên tắc. Các ký hiệu trong phương pháp ký hiệu được định vị theo điểm, tức theo vị trí chính xác của đối tượng được thể hiện, còn các biểu đồ trong phương pháp Cartodiagram thể hiện số lượng của hiện tượng được thống kê trong từng đơn vị lãnh thổ gắn liền với sự phân chia lãnh thổ. Do vậy buộc phải có ranh giới phân chia lãnh thổ.
10.Thể hiện nội dung bản đồ bằng Phương pháp Cartogram (phương pháp đồ giải)
Ưu điểm của phương pháp Cartogram là đơn giản, dễ tính toán, tính trực quan cao. Đặc biệt phương pháp này thể hiện được sự biến đổi cường độ của hiện tượng nghiên cứu một cách rõ ràng, liên tục.
Chất lượng của Cartogram phụ thuộc vào hệ thống phân chia các đơn vị lãnh thổ và số lượng các thang bậc thể hiện nội dung số liệu. Càng ít đơn vị phân chia lãnh thổ thì Cartogram càng thể hiện được tết các đặc trưng địa lý của các hiện tượng và đối tượng thành lập bản đồ. Càng nhiều bậc thang thì mức độ chi tiết của nội dung bản đồ càng cao nhưng bản đồ lại khó đọc, nói chung số lượng thang bậc không nên quá nhiều, chỉ từ 5 – 7 bậc là vừa. Vì thế, phải tuỳ theo mục đích thành lập mà chọn thang bậc sao cho hợp lý.
Trong thực tế nghiên cứu, xây dựng các bản đồ, chúng ta thấy mỗi phương pháp đều có những đặc điểm riêng, nên phải lựa chọn phương pháp biểu hiện cho thích hợp, thường là phải phối hợp nhiều phương pháp để thể hiện nhiều nội dung và nâng cao chất lượng bản đồ.