Hệ thống thông tin địa lý (Geographic Information System – gọi tắt là GIS) được hình thành vào những năm 1960 và phát triển rất rộng rãi trong 10 năm lại đây. GIS ngày nay là công cụ trợ giúp quyết định trong nhiều hoạt động kinh tế – xã hội, quốc phòng của nhiều quốc gia trên thế giới. GIS có khả năng trợ giúp các cơ quan chính phủ, các nhà quản lý, các doanh nghiệp, các cá nhân… đánh giá được hiện trạng của các quá trình, các thực thể tự nhiên, kinh tế – xã hội thông qua các chức năng thu thập, quản lý, truy vấn, phân tích và tích hợp các thông tin được gắn với một nền hình học (bản đồ) nhất quán trên cơ sở toạ độ của các dữ liệu đầu vào.
Nội dung chính
1. GIS là gì ?
Có rất nhiều định nghĩa về hệ thống thông tin địa lý (GIS): Có rất nhiều định nghĩa về hệ thống thông tin địa lý (GIS):
- Là một tập hợp các phần cứng, phần mềm máy tính cùng với các thông tin địa lý. Tập hợp này được thiết kế để thu thập, lưu trữ, cập nhật, thao tác, phân tích, thể hiện tất cả các hình thức thông tin mang tính không gian.
- Là một hệ thống máy tính có khả năng lưu trữ và sử dụng dữ liệu mô tả các vị trí (nơi) trên bề mặt trái đất -Một hệ thống được gọi là GIS nếu nó có các công cụ hỗ trợ cho việc thao tác với dữ liệu không gian.
- Là một công cụ máy tính để lập bản đồ và phân tích các sự vật, hiện tượng thực trên trái đất.
2. Các bộ phận cấu thành gis
- Phần cứng – các thiết bị mà người sử dụng có thể thao tác với các chức năng của GIS (Máy tính, các thiết bị ngoại vi, PDA’s, mobile phones, etc.)
- Phần mềm – Các chương trình mà chạy trên máy của người sử dụng; được thiết kế cho việc điều khiển và phân tích các dữ liệu không gian:ArcView, ArcGIS (ESRI), MapInfo Professional (MAPINO), ERDAS Imagine,…)
- Cơ sở dữ liệu – Vị trí địa lý, thuộc tính của đối tượng, mối quan hệ không gian của các thông tin, và thời gian.
- Phương pháp –Kỹ thuật và các thao tác được sử dụng để nhập, quản lý, phân tích và thể hiện các dữ liệu không gian và bảo đảm chất lượng của nó (số hoá, xây dựng CSDL, phân tích không gian, xây dựng bản đồ, metadata)
- Con người – Những người sử dụng, thiết kế, xây dựng, duy trì và bảo dưỡng chương trình của GIS, cung cấp dữ liệu, giải thích và báo cáo kết quả.
3. Phân biệt GIS với một số hệ thống thông tin khác?
GIS liên quan mật thiết với một số hệ thống thông tin khác như: Desktop Mapping (thành lập bản đồ), CAD (trợ giúp thiết kế nhờ mày tính), Viễn thám và GPS (hệ thống định vị toàn cầu), DBMS (Hệ quản trị cơ sở dữ liệu). Nhưng chỉ GIS mới có khả năng phân tích dữ liệu địa lý.
- Desktop Mapping (thành lập bản đồ):
- Sử dụng bản đồ để tổ chức dữ liệu và tương tác người dùng.
- Trọng tâm của hệ thống này là thành lập bản đồ: bản đồ là cơ sở dữ liệu.
- Hạn chế hơn so với GIS về khả năng quản lý dữ liệu, phân tích không gian và khả năng tuỳ biến.
- CAD (trợ giúp thiết kế nhờ mày tính)
- Trợ giúp cho việc tạo ra các bản thiết kế xây dựng nhà và cơ sở hạ tầng.
- CAD yêu cầu một số quy tắc về việc tập hợp các thành phần và các khả năng phân tích rất giới hạn.
- Hệ thống CAD có thể được mở rộng để hỗ trợ bản đồ nhưng thông thường bị giới hạn trong quản lý và phân tích các cơ sở dữ liệu địa lý lớn.
- Viễn thám và GPS (hệ thống định vị toàn cầu)
- Nghiên cứu bề mặt trái đất sử dụng kỹ thuật cảm biến như quay camera từ máy bay, các trạm thu GPS hoặc các thiết bị khác.
- Thu thập dữ liệu dạng ảnh và cung cấp các khả năng thao tác, phân tích và mô phỏng những ảnh này.
- Do thiếu các tính năng phân tích và quản lý dữ liệu địa lý, nên không thể gọi là GIS thực sự.
- DBMS (Hệ quản trị cơ sở dữ liệu)
- Chuyên về lưu trữ và quản lý tất cả các dạng dữ liệu bao gồm cả dữ liệu địa lý.
- Nhiều hệ GIS đã sử dụng DBMS với mục đích lưu trữ dữ liệu.
- DBMS không có các công cụ phân tích và mô phỏng như GIS.
4. Một số ứng dụng của GIS
- Dịch vụ khẩn cấp: Cứu hoả và cảnh sát
- Quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường: Giám sát và mô hình hoá
- Thương mại: Tìm vị trí, hệ thống phân phối
- Công nghiệp: Giao thông, liên lạc, mỏ, đường ống và chăm sóc sức khoẻ.
- Giáo dục: Nghiên cứu, Công cụ dạy học, quản lý….